Nguồn gốc vụ việc và vụ xử năm 1894 Vụ_Dreyfus

Nguồn gốc:hành động gián điệp

Ảnh chụp bản khai ngày 13 tháng 10 năm 1894. Bản gốc đã bị mất năm 1940

Nguôn gốc vụ Dreyfus, dù được làm rõ hoàn toàn từ những năm 1960[17], đã gây nên rất nhiều tranh cãi kéo dài gần một thế kỷ. Nó là một vụ gián điệp mà những vấn đề của nó vẫn còn chưa rõ cho đến tới ngày nay(độ nghiêm trọng vụ gián điệp ra sao? Sự hốt hoảng của bộ tham mưu? Sự gài cắm của Sở Tình báo Pháp? Màn khói trong sự phát triển của pháo nòng 75 ly tối mật?). Nhiều nhà sử học đã đề ra nhiều giả thuyết khác nhau về vụ Dreyfus trong những chi tiết chưa chứng minh, nhưng tất cả đều đi đến kết luận thống nhất: Dreyfus vô tội trong mọi sự vụ liên quan.

Khám phá ra bản kê

Những nhân viên Sở Tình báo quân đội (Service de Renseignements militaire-SR) đã khẳng định một cách chắc chắn [18] rằng tháng 9 năm 1894, con đường thông thường« voie ordinaire »)[19], đã mang đến cơ quan phản gián Pháp một lá thư, về sau có tên là bản khai. Bức thư này, bị rách thành sáu mảnh lớn[20], được viết trên giấy đánh máy, không chữ ký hay đề ngày tháng, được gửi cho tùy viên quân sự Đức, Max von Schwartzkoppen. Nó nói rằng những tài liệu bí mật, nhưng có tầm quan trọng tương đối[21], đã được chuyển cho một cường quốc nước ngoài.

Tìm kiếm tác giả bản kê

Tướng Auguste Mercier, Bộ trưởng Chiến tranh năm 1894

Vấn đề này dường như đủ quan trọng để người đứng đầu "Ban Thống kê"[22], một người Mulhouse[23] Jean Sandherr phải thông báo cho Bộ trưởng Chiến tranh Pháp, tướng Auguste Mercier. Sở Tình báo nghi ngờ những rò rỉ đã diễn ra từ đầu năm 1894 và bắt tay vào tìm kiếm tác giả của chúng. Ông Bộ trưởng, người bị báo chí tấn công dữ dội về những hành động tỏ ra kém năng lực [24], dường như tìm cách khuếch trương vụ việc để nâng cao hình ảnh bản thân[25] · [26]. Ông đã tổ chức ngay lập tức hai cuộc điều tra bí mật, một theo hướng hành chính và một theo hướng tư pháp. Phương hướng tìm ra tội phạm dựa trên một lập luận đơn giản nếu không nói là thô thiển[27]: phạm vi điều tra được giới hạn một cách võ đoán trong một ai ở vị trí đáng ngờ, hay một cựu nhân viên của Bộ Tổng tham mưu, nhất thiết phải trong đơn vị pháo binh[28], và là sĩ quan thực tập[29].

Nghi phạm lý tưởng được nhận diện: đại úy Alfred Dreyfus, cựu sinh viên bách khoa và pháo thủ, theo Do Thái giáo và gốc Alsace, xuất thân từ con đường lập công với nền cộng hòa[30]. Thời kỳ đầu vụ Dreyfus, người ta nhấn mạnh tới nguồn gốc Alsace của ông hơn là vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên trường hợp Dreyfus không phải là hiếm, kể từ khi người ta ưu đãi các sĩ quan đến từ miền Đông vì sự hiểu biết kép của họ về ngôn ngữ và văn hóa Đức[31] · [32]. Nhưng chủ nghĩa bài Do Thái, vốn lan tràn cả vào Bộ Tổng tham mưu[33], nhanh chóng trở thành nhân tố chính dẫn dắt vụ điều tra, đã lấp đầy tất cả chỗ trống của một cuộc điều tra sơ bộ qua loa một cách đáng kinh ngạc[27]. Lý do là Dreyfus ở gần thời điểm đó là sĩ quan Do Thái duy nhất có công tác với Bộ Tổng tham mưu.

Thực tế là, huyền thoại[34] về tính cách lạnh lùng và kín đáo, thậm chí kiêu kỳ, và về tính « hiếu kỳ » của Dreyfus đã hại ông. Các nét tính cách này, một số là bịa đặt, một số khác là tự nhiên, đã khiến các lời buộc tội trở nên chấp nhận được bằng việc chuyển đổi, diễn giải những hành động thông thường nhất trong đời sống hàng ngày trong một bộ, thành những hành vi ám muội của gián điệp. Sự điều tra ban đầu thiên lệch và cục bộ này đã dẫn đến sự gấp bội những sai sót mà đưa đến sự dối trá của chính quyền. Điều này xuyên suốt một vụ việc mà sự vô lý ngự trị bất chấp chủ nghĩa thực chứng đang thịnh hành ở thời kỳ đó[35]:

Từ giờ đầu tiên này đã diễn ra hiện tượng sẽ thống trị toàn bộ vụ bê bối. Chúng không còn là những sự kiện được kiểm soát, những việc được kiểm tra với sự quan tâm tạo nên xác tín; nó là sự xác tín tối cao, không thể cưỡng lại, chính nó làm biến dạng các sự kiện và sự việc.

Joseph Reinach, hạ nghị sĩ

Giám định chữ viết

Alphonse Bertillon không hề là một chuyên gia về chữ viết tay nhưng đã phát minh ra lý thuyết về "sự tự rèn"(« l'autoforgerie »)Thiếu tá du Paty de Clam, người chỉ đạo vụ điều tra, người tiến hành cuộc bắt giữ đại úy Dreyfus

Để có thể kết tội Dreyfus, các nét chữ viết được so sánh với chữ viết tay của Dreyfus. Tuy nhiên lúc bấy giờ không có người nào trong Bộ Tổng tham mưu có chuyên môn trong lĩnh vực giám định chữ viết.[36]. Do đó vai trò rơi vào tay đại úy Armand du Paty de Clam, một người lập dị[37] · [38], người thường tự hào là chuyên gia về chữ viết tay. So sánh chữ viết của Dreyfus với bản kê ngày 5 tháng 10, du Paty kết luận ngay tức thì sự đồng nhất giữa hai mẫu chữ. Sau một ngày làm việc thêm, ông này đảm bảo trong một báo cáo rằng, bất chấp một số khác biệt nhất định, sự tương đồng hoàn toàn đủ để biện minh cho một cuộc điều tra. Dreyfus trở thành "tác giả khả dĩ" của bản kê đối với Bộ Tổng tham mưu[39].

Tướng Mercier khi đã nắm được nghi phạm, đã thổi phồng tính nghiêm trọng của vụ án, đẩy nó lên một vụ án nhà nước trong tuần trước vụ bắt giữ Dreyfus. Thật vậy, vị bộ trưởng này đã thông báo và tham khảo tất cả các cơ quan Nhà nước[40].Bất chấp những lời khuyên phải thận trọng[41] và những lý lẽ phản bác hăng hái của Bộ trưởng Ngoại giao Gabriel Hanotaux trong một cuộc họp nhỏ của nội các[42], ông đã quyết định cho truy tố[43]. Du Paty de Clam được bổ nhiệm làm người phụ trách vụ điều tra chính thức.

Trong thời gian này nhiều thông tin được hé lộ đồng thời, một số về tính cách của Dreyfus, một số khác để đảm bảo tính chân thực của sự khớp chữ viết tay. Chuyên gia Gobert của Ngân hàng Pháp(Banque de France) cảm thấy không thuyết phục, đã tìm ra nhiều sự khác biệt và thậm chí viết rằng "bản chất chữ viết tay trên bản kê loại trừ sự ngụy tạo hình ảnh"[44]. Cảm thấy thất vọng, Bộ trưởng Mercier bèn gọi tới Alphonse Bertillon, người sáng tạo ra nhân trắc học tội phạm, nhưng không hề là một chuyên gia chữ viết tay. Bertillon ban đầu cũng không khẳng định gì hơn Gobert, khi đã xem xét không bỏ qua một bản chép chữ viết tay của Dreyfus[45]. Nhưng sau đó, dưới áp lực của các nhà quân sự[46], ông đã khẳng định rằng Dreyfus đã tự sao chép và phát triển cái lý thuyết gọi là "tự nhái chữ"- « autoforgerie ».

Bắt giữ

Ngày 13 tháng 10, với một hồ sơ sơ trống rỗng và không có bằng chứng xác thực nào, tướng Mercier đã triệu tập đại úy Dreyfus cho một cuộc khám xét toàn diện, công khai. Mục đích của Bộ Tổng tham mưu là tìm kiếm bằng chứng hoàn hảo nhất của luật pháp Pháp: sự thú tội. Sự thú tội này có cơ hội đạt được bằng cách gây bất ngờ, tạo ra một lá thư gợi ý từ bản kê [47] của tội phạm[48] được đọc cho chép.

Sáng ngày 15 tháng 1894 đại úy Dreyfus đứng trước chứng cớ trên nhưng không chịu thú tội. Du Paty thậm chí còn cố gắng khuyến khích Dreyfus tự sát bằng cách đặt trước ông một khẩu súng lục, nhưng bị cáo đã từ chối, tuyên bố rằng ông "muốn sống để chứng minh sự vô tội của mình". Hy vọng của những nhà quân sự đã phá sản. Dù vậy, Du Paty de Clam đã cố làm tất cả để có thể bắt giữ Dreyfus [49] và cáo buộc ông làm gián điệp cho kẻ thù để đẩy ông tới một tòa án bính. Dreyfus bị giam cầm ở nhà tù Cherche-midi ở Paris[50].

Dự thẩm và ra tòa án binh lần thứ nhất

Vợ Dreyfus được thông báo về vụ bắt giữ trong ngày hôm đó, bởi một cuộc khám xét căn hộ của họ. Bà bị khủng bố bởi Paty người ra lệnh cho bà phải giữ bí mật về vụ bắt giữ chồng bà, và thậm chí khẳng định rằng: "Một lời, chỉ một lời thôi, và sẽ là chiến tranh châu Âu!"[51]. Hoàn toàn trái pháp luật[52], Dreyfus bị giam giữ bí mật trong ngục, nơi Du Paty tra hỏi cả ngày lẫn đêm để thu được lời thú tội nhưng vẫn thất bại. Ông được sự ủng hộ tinh thần từ người mà về sau được coi như dreyfusard đầu tiên, thiếu tá Forzinetti, phụ trách các trại giam quân sự ở Paris[50].

Ngày 29 tháng 10, vụ việc được tiết lộ bởi tờ báo bài Do Thái của Édouard Drumont, Tiếng nói Tự do-La Libre Parole , trong một bài viết đánh dấu sự bắt đầu một chiến dịch báo chí rất gay gắt cho đến vụ xử. Sự kiện này đặt vụ việc lên địa hạt của chủ nghĩa bài Do Thái, sẽ còn chưa chấm dứt cho tới lúc chung cuộc vụ việc[53].

Ngày 1 tháng 11, Mathieu Dreyfus, anh trai của Alfred, được gọi khẩn cấp tới Paris và được thông báo về vụ bắt giữ. Ông trở thành người khởi xướng cuộc chiến đấu khó khăn để đòi tự do cho em trai[54]. Không chần chừ, ông tìm ngay một luật sư, và đã thuê Edgar Demange, một luật sư lỗi lạc chuyên về các vụ hình sự[55].

Dự thẩm

Xem toàn văn bản cáo trạng chống Dreyfus trên Wikisource tiếng Pháp

Ngày 3 tháng 11, trái với lương tâm[56], tướng Félix Gustave Saussier ra lệnh điều tra chính thức. Ông có đầy đủ khả năng để ngăn cản guồng máy kết tội Dreyfus, nhưng đã không làm thế, có lẽ vì sự tin tưởng thái quá vào tòa án quân sự[57].Thiếu tá Besson d'Ormescheville, người tường trình trước tòa án binh, đã viết một báo cáo buộc tội trong đó "những yếu tố tinh thần"(les élements moraux) của lời buộc tội(bao gồm những lời đồn thổi về thói quen của Dreyfus và những dị nghị về hiểu biết của ông về nước Đức[58] và cả về "lai lịch đáng chú ý" của ông) được diễn giải dài hơn nhiều so với "những yếu tố cụ thể" ( éléments matériels )[59], mà sự hiếm hoi đó cũng phục vụ cho lời cáo buộc:« đây là một chứng cứ tội lỗi, chứng tỏ rằng Dreyfus đã xóa sạch các hành tung ». Sự thiếu vắng hoàn toàn tính trung lập trong bản cáo trạng buộc tội này đã khiến Émile Zola gọi nó là « tượng đài về sự thiên lệch[60] ».

Ngày 4 tháng 12, với hồ sơ trống rỗng đó, Dreyfus được đưa tới tòa án binh. Sự bí mật được dỡ bỏ và luật sư Demange lần đầu tiên được tiếp cận với hồ sơ. Sau khi đọc, niềm tin của vị luật sư, người đã có thể khẳng định tính hư vô của văn bản cáo trạng, trở nên tuyệt đối[61]. Lời cáo buộc này chỉ dựa trên một tờ giấy duy nhất, bản kê, mà nó bị các chuyên gia không tán thành, và một đám các chứng cứ gián tiếp.

Vụ xử: « Xử kín hay là chiến tranh ! »[62]

Bản in tờ Le Petit Journal ngày 23 tháng 12 năm 1894

Trong suốt hai tháng trước vụ xử, báo chí đã khuấy động dư luận về nó. Các tờ La Libre Parole, L'Autorité, Le Journal, Le Temps kể lại tường tận về cuộc sống của Dreyfus với rất nhiều điều bịa đặt và tưởng tượng[63]. Đây cũng là dịp cho các tờ báo cực đoan như La Libre Parole hay La Croix, để biện minh cho chiến dịch chống lại sự hiện diện của người Do Thái, với những tựa đề kiểu « Chúng tôi đã nói với các ngài về điều đó nhiều rồi ! »("On vous l'avait bien dit !"')'[64]. Đặc biệt, thời kỳ kéo dài này là công cụ để Bộ Tổng tham mưu để chuẩn bị dư luận và gây sức ép gián tiếp lên bồi thẩm đoàn[65]. Vậy nên ngày 8 tháng 11, tướng Mercier đã tuyên bố Dreyfus có tội trong một bài phỏng vấn với tờ Le Figaro[66]. Đáp lại Mercier, một bài viết của Arthur Meyer trên tờ Le Gaulois đăng ba tuần sau đã lên án cáo bản cáo trạng chống Dreyfus và đã đặt câu hỏi: "Sự tự do nào còn lại trong tòa án binh kể trên để kết tội bị cáo này?"[67].

Cuộc tranh cãi giữa những nhà báo trên những phải xã luận xảy ra trong khuôn khổ một cuộc tranh luận rộng hơn nhân đó liên quan đến việc xử kín. Với Ranc và Cassagnac những người đại diện cho phái đa số, xử kín là một thủ đoạn thấp hèn với mục đích buộc tội Dreyfus, "bởi vì ngài bộ trưởng là một gã hèn nhát". Bằng chứng là "ông ta đã bò rạp trước người Phổ" khi đã chấp nhận công bố những lời cải chính của Đại sứ quán Đức ở ParisBredin, L'Affaire, p.85</ref>. Nhưng với những tờ báo khác, như tờ L'Éclair ngày 13 tháng 12, « Việc xử kín là cần thiết để tránh một [casus belli] lỗi: {{lang}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp) »[68], cũng như với Judet trên tờ Le Petit Journal ngày 18, « xử kín là cách che mắt không thể xâm phạm của chúng ta đối với nước Đức » hay le Chanoine của tờ La Croix cùng ngày, rằng « xử kín là triệt để nhất »[69].

Vụ xử được mở ngày 19 tháng 12 vào lúc 13h[70], việc xử kín được tuyên bố lập tức. Việc xử kín này hơn nữa còn trái trình tự pháp luật vì thiếu tá Picquart cảnh sát trưởng Paris Louis Lépine đã có mặt tại một số phiên tòa phạm luật, một cách thức cho phép cho giới quân đội che giấu hồ sơ trống rỗng với công chúng[71] và dập tắt các tranh luận[72]. Như được dự đoán, sự sơ sai của hồ sơ đã lộ ra trong những phiên tòa. Những cuộc thảo luận kỹ hơn về bản kê chỉ ra rằng đại úy Dreyfus không thể là tác giả[73] · [74]. Mặt khác, bị cáo tuyên bố mình vô tội, và tự bào chữa từng điểm trong cáo trạng một cách nhiệt huyết và lôgic[75]. Thêm vào đó, các tuyên bố của ông được hỗ trợ một cả tá bằng chứng gỡ tội. Cuối cùng thì sự vắng bóng của động cơ phạm tội là một điểm vướng mắc nghiêm trọng trong cáo trạng. Dreyfus trên thực tế tỏ ra là một sĩ quan rất yêu nước và được đánh giá rất tốt bởi các cấp chỉ huy trực tiếp, và nhất là rất giàu có[76], ông do đó không có lý do nào dễ hiểu để phản bội. Sự minh chứng bởi tín ngưỡng Do Thái của Dreyfus, điều duy nhất được khuấy động bởi báo chí cánh hữu, không đủ thuyết phục với tòa án.

Alphonse Bertillon, không hề là một chuyên gia về chữ viết tay, đã được giới thiệu trước tòa như một học giả bậc nhất trong lĩnh vực này. Ông này mới đề xuất một lý thuyết về sự tự nhái chữ(autoforgerie) vào thời điểm đó và đã cáo buộc Dreyfus bắt chước chữ của chính mình, giải thích những khác biệt bằng cách dùng những trích đoạn của chữ viết tay của anh trai ông Mathieu và vợ ông Lucie. Lý thuyết này, mà về sau được xem là kỳ cục và viển vông[77] lại có vẻ tạo được một ấn tượng lên hội đồng xét xử. Hơn nữa, thiếu tá Hubert-Joseph Henry[78] đã tuyên bố hùng hồn[79] trước phiên tòa. Ông này khẳng định rằng đã có một nghi ngờ từ tháng 2 năm 1894 về một vụ phản bội ở trong Bộ Tổng tham mưu và "một người đáng kính" đã tố cáo đại úy Dreyfus. Ông thề danh dự rằng kẻ phản bội là Dreyfus bằng việc chỉ lên cây thánh giá trên tường của phòng xử án[80]. Dreyfus nổi nóng và đòi hỏi phải được đối diện với người buộc tội ẩn danh nói trên, nhưng phía Bộ Tổng tham mưu đã từ chối. Sự kiện này đã ảnh hưởng không thể phủ nhận tới hội đồng xét xử, bao gồm 7 sĩ quan vừa làm thẩm phán vừa làm hội thẩm. Dù sao, kết cục vụ xử vẫn chưa chắc chắn. Niềm tin của các quan tòa bị lung lay bởi thái độ cương quyết và các câu trả lời hợp lý của bị cáo[81], họ quyết định họp nghị án. Tuy nhiên Bộ Tổng tham mưu vẫn còn một lá bài trên tay để nghiêng hẳn cán cân chống lại Dreyfus.

Hồ sơ bí mật được gửi đến quan tòa

Max von Schwartzkoppen luôn khẳng định rằng chưa từng quen biết Dreyfus

Các nhân chứng trong ngành quân đội đã cảnh báo chỉ huy về các nguy cơ của việc xử trắng án. Để đề phòng, Ban thống kê đã chuẩn bị một văn bản chứa đựng, về lý thuyết, 4 chứng cứ "tuyệt đối" về tội lỗi của đại úy Dreyfus, kèm theo một bản chú giải.Nội dung của văn bản mật này tới nay còn chưa rõ ràng, bởi không bản lưu nào liệt kê các tài liệu nào được biết đến. Các nghiên cứu gần đây [82] chỉ ra sự tồn tại một sự đánh số chứng tỏ sự tồn tại của một tá văn bản khác nhau. Trong số chúng, một số lá thư mang tính chất khiêu dâm-đồng tính (thư Davignon và những thứ khác)đặt ra câu hỏi về sự cố tình gây thông tin sai lạc của Ban thống kê và về đối tượng của sự chọn lựa văn bản này.

Các văn bản được đưa ra, một cách hoàn toàn sai pháp luật, vào lúc bắt đầu nghị án tới người đứng đầu hội đồng xét xử, đại tá Émilien Maurel, theo lệnh của Bộ trưởng Chiến tranh, tướng Mercier[83]. Về sau, trong phiên tòa ở Rennes năm 1899, tướng Mercier giải thích rằng chính bản chất của các tài liệu ngăn cản chúng được công bố trước phiên tòa toàn thể[84]. Hồ sơ này có chứa, ngoài những lá thư không có gì đáng kể mà một số là giả mạo[85], một văn bản nổi tiếng với cái tên "Tên vô lại D." (« Canaille de D… »).

Đó là một lá thư của tùy viên quân sự Đức, Max von Schwartzkoppen tới tùy viên quân sự Ý Alessandro Panizzardi bị chặn bởi Sở Tình báo. Bài báo này được phân tích để cáo buộc Dreyfus, như những người buộc tội giải thích, vì nó ám chí tới tên đầu của ông[86]. Thực tế, Ban Thống kê biết rằng lá thư không thể gán cho Dreyfus, mà nếu có thể gán cho, thì cũng chỉ ở mức ý đồ phạm tội chứ không phải tội chứng[87]. Đại tá Maurel khẳng định trong lần xử Dreyfus thứ hai[88] rằng các tài liệu bí mật không phục vụ cho việc thuyết phục quan tòa. Nhưng ông đã tự mâu thuẫn khi ông khẳng định ông chỉ đọc một văn bản duy nhất, "thế là đã đủ rồi".

Buộc tội, giáng chức và trục xuất

Một bản in tờ Le Petit Journal ngày 20 tháng 1 năm 1895

Ngày 22 tháng 12, sau nhiều giờ nghị án, phán quyết được đưa ra. Theo kết quả bỏ phiếu nhất trí của 7 thẩm phán, Alfred Dreyfus bị buộc tội phản quốc, bị tước quân hàm, thải hồi khỏi quân ngũ, và bị trục xuất tại một cơ sở bị canh phòng, tức nhà tù ở Guyane. Dreyfus không chịu án tử hình, vốn đã bị bãi bỏ cho các án chính trị theo Hiến pháp Pháp 1848. Đối với chính quyền, báo chí và công luận, những nghi ngờ tồn tại trước vụ xử đã bị xua tan.

Sự kết tội được thừa nhận; từ cánh hữu tới cánh tả, người ta lấy làm tiếc vì án tử hình đã bãi bỏ với tội danh phản quốc, và người ta nhắc lại rằng Dreyfus đã đáng ra có thể bị buộc tội chết một cách thích đáng và khéo léo bằng việc áp dụng Điều 76 Bộ Luật quân sự Pháp. Chủ nghĩa bài Do Thái đạt tới đỉnh điểm trên báo chí và trỗi dậy trong dân chúng còn nín nhịn cho tận khi đó[89]. Jean Jaurès tiếc cho sự nhẹ nhàng của bản án trong một phát biểu ở Hạ viện, viết rằng: « một tay lính gần đây bị xử tử vì ném một cái cúc lên hạ sĩ quan của anh ta. Thế mà sao lại để kẻ phản bội khốn nạn này sống ? » Clemenceau, trên tờ La Justice cũng có một nhận xét tương tự[90].

Buồng của Dreyfus ở Đảo Quỷ ở GuyaneMột bản in tờ Petit Journal ngày 27 tháng 9 năm 1896

Ngày 6 tháng 1 năm 1895, buổi lễ tước quân hàm diễn ra tại sân Morlan của Trường quân sự Paris: khi tiếng trống vang lên, Dreyfus bị áp giải bởi 4 pháo thủ dẫn đến một người thi hành án đọc án quyết. Một thượng sĩ thuộc lực lượng Cận vệ cộng hòa tước bỏ các huy hiệu, các sợi kim tuyến trên lon, rồi tước bỏ áo khoác. Các nhân chứng ghi nhận phẩm cách của Dreyfus, người tiếp tục bảo vệ sự trong sạch của mình, vung tay lên kêu: "Vô tội, vô tội! Nước Pháp muôn năm! Quân đội muôn năm!". Người thi hành án bẻ gãy thanh gươm kê trên đầu gối sau đó Dreyfus bước chậm rãi trước mặt những đồng đội cũ[91]. Một sự kiện, mà người ta đặt tên là "huyền thoại về những lời thú nhận"[92], đã diễn ra trước buổi lễ. Trong xe hòm đi tới Trường quân sự, Dreyfus đã thú nhận sự phản bội của mình với đại úy Lebrun-Renault[93]. Có lẽ thực ra thì, viên đại úy Cận vệ Cộng hòa đã phóng đại và Dreyfus chưa từng có hành vi nhận tội nào[94]. Do tính chất vụ án chạm đến an ninh quốc gia, tù nhân giam giữ bí mật trong một căn phòng để chờ chuyển đi. Ngày 17 tháng Một, ông được chuyển tới trại giam ở Đảo Ré, nơi ông lưu lại hơn một tháng. Ông có quyền gặp vợ hai lần mỗi tuần, trong một phòng dài, mỗi người một đàu, giám đốc trại giam ở giữa[95]. Ngày 21 tháng 2, ông lên tàu Ville-de-Saint-Nazaire. Ngày hôm sau, tàu đi về hướng Guyane.

Ngày 12 tháng Ba, sau một chuyến đi khó nhọc dài nửa tháng, con tàu thả neo ngoài khơi Đảo Salut. Dreyfus ở lại một tháng trên trại giam của Đảo Hoàng Gia, sau đó được chuyển tới Đảo Quỷ ngày 14 tháng 4. Cùng với những người canh gác mình, ông là cư dân duy nhất trên đảo, trong một buồng giam vuông bằng đá mỗi chiều 4 mét.[96]. Bị ám ảnh bởi nỗi sợ vượt ngục, viên chỉ huy trại giam đã biến đời sống của người bị giam cầm thành địa ngục với những điều kiện hết sức khắc nghiệt[97]. Dreyfus mắc bệnh, bị giày vò bởi những cơn sốt trầm trọng hơn mỗi năm[98].

Dreyfus buộc phải viết trên giấy đã được đánh số và ký trước. Ông chịu sự kiểm duyệt của người chỉ huy cũng như khi ông nhận thư của vợ ông Lucie, bằng những lá thư họ an ủi lẫn nhau. Ngày 6 tháng 9 năm 1896, những điều kiện sống của Alfred Dreyfus còn trở nên trầm trọng thêm: ông phải chịu sự khóa kép (tiếng Pháp: la double boucle), chịu khổ hình ở trên giường, không di chuyển, chân bị xích ở mắt cá. Phương pháp giam giữ này là hậu quả của một thông tin sai về cuộc vượt ngục của ông được loan trên một tờ báo tiếng Anh. Trong suốt hai tháng dài, điều này đẩy Dreyfus vào một sự thất vọng sâu sắc. Vào thời điểm đó, ông đã tin rằng đời mình sẽ kết thúc ở trên hòn đảo xa xôi đó[99].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vụ_Dreyfus http://www.cahiers-naturalistes.com/centenaire_reh... http://www.roi-president.com/elections_legislative... http://www.assemblee-nationale.fr/histoire/Dreyfus... http://www.assemblee-nationale.fr/histoire/Dreyfus... http://rennesetdreyfus.blogspot.fr/ http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k21872p http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k24250f http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k24251s http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k242524 http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k24254t